Biểu diễn Kabuki

Có ba thể loại kịch kabuki chính: jidai-mono (時代物, thời đại vật, hay truyện trước thời đại Sengoku), sewa-mono (世話物, thế thoại vật, hay sau thời đại Sengoku), và shosagoto (所作事, sở tác sự).

Jidaimono, hay kịch lịch sử, thường được lấy bối cảnh từ rất nhiều sự kiện trong lịch sử Nhật Bản. Luật kiểm duyệt khắt khe có hiệu lực trong toàn bộ thời đại Edo, cấm nói đến các sự kiện đương thời và đặc biệt cấm phê phán Mạc phủ hay thể hiện Mạc phủ trong các vai phản diện. Tuy nhiên, cùng với thời gian, việc cấm đoán nghiêm ngặt này có nhiều thay đổi. Phần lớn các jidaimono, lấy bối cảnh là Chiến tranh Gempei vào những năm 1180, những cuộc chiến Nanboku-chō vào những năm 1330, hay các sự kiện lịch sử khác. Thực ra, việc sử dụng những bối cảnh lịch sử, sự kiện lịch sử hay nhân vật lịch sử trong đó là để kín đáo ám chỉ các sự kiện đương thời. Kanadehon Chūshingura, một trong những vở kịch kabuki nổi tiếng nhất, là một ví dụ điển hình, nó bề ngoài lấy bối cảnh những năm 1330, nhưng thực ra lại miêu tả về một vụ việc vào thời điểm đó, đó là vụ báo thù của 47 Ronin.

Không giống như jidaimono nói chung là đề cập đến tầng lớp võ sĩ,, sewamono chủ yếu lấy đối tượng phản ánh là thường dân, cụ thể là thị dân và nông dân. Sewamono nói chung lấy chủ đề gia đình hay lãng mạn. Một số trong các vở sewamono nổi tiếng nhất là các vở diễn về tự sát vì tình, để thích ứng với các tác phẩm của nhà viết kịch bunraku Chikamatsu; việc tập trung vào các bộ đôi lãng mạn không thể chung sống với nhau vì nhiều lý dó và sau đó họ quyết định thay vào đó là cùng chết bên nhau. Các vở kịch sewamono loại này bị hạn chế và chịu nhiều sức ép của xã hội.

Nét đặc trưng của nhà hát kabuki là mie (見得) (kiến đắc), theo đó diễn viên thể hiện một điệu bộ gây ấn tượng mạnh và biểu lộ được tính cách của nhân vật.[11] Vào những lúc đó, tên ở nhà của diễn viên (yagō, 屋号, ốc hào) đôi khi được các khán giả hiểu biết gọi to lên, để thể hiện sự hoan nghênh của khán giả với tài năng của diễn viên. Thậm chí việc cổ vũ nhiệt liệt hơn là hét to tên cha của diễn viên. Keshō, cách hóa trang của kabuki, là một yếu tố dễ thấy ngay cả với những người không quen thuộc lắm với loại hình nghệ thuật này. Bột gạo được dùng để tạo ra phấn nền trắng oshiroi, và kumadori hay các đường nét phóng đại của khuôn mặt để tạo ra hình ảnh của thú vật hay các mặt nạ siêu nhiên. Màu của "kumadori" là cách thể hiện bản chất của nhân vật: màu đỏ dùng để thể hiện sự giận dữ, lòng đam mê, anh hùng chủ nghĩa, sự chính trực, và các tính cách chính diện khác; màu xanh hoặc đen dùng để chỉ kẻ ác, ghen ghét, và các tính cách phản diện; màu xanh da trời, cho các thế lực siêu nhiên; và màu tím, cho sự cao quý.